Hội chứng dễ bị tổn thương là gì? Các công bố khoa học về Hội chứng dễ bị tổn thương

Hội chứng dễ bị tổn thương, hay còn được gọi là hội chứng dễ gãy xương, là một tình trạng y tế khi cơ thể của người bệnh không tạo ra đủ collagen, là loại prote...

Hội chứng dễ bị tổn thương, hay còn được gọi là hội chứng dễ gãy xương, là một tình trạng y tế khi cơ thể của người bệnh không tạo ra đủ collagen, là loại protein chịu trách nhiệm cung cấp sự cố định và khả năng chống nứt gãy của xương, sụn và mô liên kết khác. Khi collagen bị thiếu hoặc không hoạt động đúng cách, xương và các cấu trúc liên quan trở nên yếu và dễ bị tổn thương. Hội chứng dễ bị tổn thương có thể di truyền hoặc do các biến đổi gen gây ra. Những người mắc phải hội chứng này có thể bị gãy xương dễ dàng hơn khi thực hiện các hoạt động bình thường và có thể cần phải tuân thủ một số hạn chế trong việc tham gia các hoạt động vật lý.
Hội chứng dễ bị tổn thương, hay còn được gọi là hội chứng dễ gãy xương, là một danh mục các rối loạn genetik có chung đặc điểm là gây ra sự suy yếu của việc hình thành và bảo vệ xương. Mặc dù có nhiều loại hội chứng dễ bị tổn thương và mỗi loại có nguyên nhân và triệu chứng riêng, tất cả đều có chung sự yếu đối với việc tạo ra collagen hoặc các protein liên quan.

Collagen là một loại protein quan trọng trong việc xây dựng và duy trì sự mạnh mẽ, đàn hồi và linh hoạt của xương, sụn và mô liên kết. Khi sản xuất collagen không đủ hoặc collagen được tạo ra không đủ chất lượng, xương và mô liên kết trở nên dễ gãy và tổn thương hơn.

Các triệu chứng của hội chứng dễ bị tổn thương có thể thay đổi tùy thuộc vào loại chứng dễ bị tổn thương cụ thể, nhưng một số triệu chứng phổ biến bao gồm:

1. Gãy xương dễ dàng: Đây là triệu chứng chính của hội chứng dễ bị tổn thương. Người bị mắc phải có khả năng gãy xương dễ dàng khi thực hiện các hoạt động thông thường hoặc thậm chí không gặp tác động lớn. Các gãy xương có thể xảy ra ngay cả trong tình huống hàng ngày như cử động, ngã, hoặc hít vào.

2. Thoái hóa xương: Người bệnh có nguy cơ cao hơn bình thường để phát triển các vấn đề về xương, như thoái hóa xương, loãng xương và viêm khớp.

3. Chấn thương tại các mô liên kết khác: Một số người bị hội chứng dễ bị tổn thương có thể gặp vấn đề về các mô liên kết khác ngoài xương, bao gồm mô liên kết trong tim, mạch máu, da và các bộ phận khác.

4. Nguy cơ dễ phải mổ: Do xương yếu, các thủ tục phẫu thuật có thể trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn.

5. Chiều cao ngắn: Một số người bị hội chứng dễ bị tổn thương có thể có chiều cao ngắn hơn so với bình thường.

6. Vấn đề với răng: Các vấn đề về răng như răng lỏng, rụng răng và viêm nướu cũng có thể xảy ra.

Để chẩn đoán hội chứng dễ bị tổn thương, các xét nghiệm genetik và x-ray xương thường được sử dụng. Hiện tại, không có phương pháp chữa trị hoàn toàn cho hội chứng dễ bị tổn thương. Tuy nhiên, việc quản lý có thể bao gồm chế độ ăn uống lành mạnh, giảm tác động lực lượng lên xương, sử dụng các phương pháp giảm đau và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Nếu bạn nghi ngờ mình hoặc ai đó có thể mắc phải hội chứng dễ bị tổn thương, hãy tìm kiếm tư vấn từ các chuyên gia y tế để được khám và đưa ra chẩn đoán chính xác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hội chứng dễ bị tổn thương":

Tình trạng động kinh liên tục trong hội chứng X dễ bị tổn thương Dịch bởi AI
Epilepsia - Tập 51 Số 12 - Trang 2470-2473 - 2010
Tóm tắt

Động kinh là phổ biến trong hội chứng X dễ bị tổn thương (FXS), nguyên nhân phổ biến nhất của chậm phát triển trí tuệ di truyền. Tuy nhiên, tình trạng động kinh liên tục (SE) dường như là điều hiếm gặp trong FXS, đặc biệt là như một biểu hiện động kinh ban đầu. Theo hiểu biết của chúng tôi, SE chỉ được báo cáo ở bốn bệnh nhân FXS. Chúng tôi báo cáo các đặc điểm lâm sàng và kết quả điện não đồ (EEG) của năm trẻ em mắc FXS, những người đã xuất hiện SE như là cơn động kinh ban đầu của họ.

Nghiên cứu một số yếu tố liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Lão khoa Trung ương
Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả cắt ngang tiến cứu tại Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Lão khoa Trung ương, từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 10 năm 2016 trên bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên, hội chứng dễ bị tổn thương được đánh giá theo tiêu chí Fried. Kết quả: Tổng số có 389 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 79,1 ± 8,9 năm. Tỷ lệ bệnh nhân có hội chứng dễ bị tổn thương là 68,4%. Hoạt động chức năng hàng ngày, hoạt động chức năng hàng ngày có dụng cụ và chỉ số bệnh đồng mắc Charlson có liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương (p<0,05). Kết luận: Hoạt động chức năng hàng ngày, hoạt động chức năng hàng ngày với dụng cụ và tình trạng đa bệnh lý có liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương. Từ khóa: Hội chứng dễ bị tổn thương, yếu tố liên quan, người cao tuổi, Khoa Cấp cứu.
#Hội chứng dễ bị tổn thương #yếu tố liên quan #người cao tuổi #Khoa Cấp cứu
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA TẬP LUYỆN Ở NGƯỜI CAO TUỔI MẮC HỘI CHỨNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả bước đầu của tập luyện ở người cao tuổi mắc Hội chứng dễ bị tổn thương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp, đối chứng ngẫu nhiên tại Bệnh viện Đa khoa Hòe Nhai từ tháng 9/2021 đến tháng 11/2022.  Tổng số 60 bệnh nhân cao tuổi mắc hội chứng dễ bị tổn thương được thu nhận trong nghiên cứu, tuổi trung bình là 81,35 ± 7,82. Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm tương đồng, phân tầng ngẫu nhiên: (1) 30 bệnh nhân được can thiệp tập luyện theo bài tập của Tổng cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình, (2) 30 bệnh nhân trong nhóm chứng được chăm sóc tiêu chuẩn theo chế độ dinh dưỡng thông thường và điều trị bệnh lý nền/bệnh kèm theo. Các triệu chứng của hội chứng dễ bị tổn thương, chất lượng cuộc sống…được đánh giá sau 4 tháng tập luyện. Kết quả: tại thời điểm 4 tháng sau luyện tập (T4), cơ lực ở nhóm có luyện tập cao hơn nhóm không luyện tập với điểm số trung bình lần lượt là 14,9 ± 8,6 và 11,0 ± 5,8; tốc độ đi bộ ở nhóm có luyện tập nhanh hơn nhóm không luyện tập với điểm số trung bình lần lượt là 8,66 ± 5,84 (s) và 11,69 ± 6,59 (s); điểm đánh giá sức bền và năng lượng, hoạt động thể lực, chất lượng cuộc sống ở nhóm tập luyện tăng so với nhóm không được can thiệp tập luyện. Kết luận: can thiệp hoạt động thể chất trong bài tập cho thấy hiệu quả tích cực trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống, có thể làm đảo ngược tình trạng dễ bị tổn thương ở người cao tuổi.
#Tập luyện #người cao tuổi #hội chứng dễ bị tổn thương
Tỷ lệ hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân cao tuổi tại khoa cấp cứu Bệnh viện Lão khoa Trung ương
Hội chứng dễ bị tổn thương rất phổ biến ở người cao tuổi. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để xác định tỷ lệ hội chứng dễ bị tổn thương ở bệnh nhân cao tuổi điều trị tại khoa cấp cứu Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang tại khoa Cấp cứu Bệnh viện Lão khoa Trung ương, từ 10/2015 đến 10/2016 trên bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên. Các biến số gồm: Đặc điểm chung và hội chứng dễ bị tổn thương đánh giá theo tiêu chuẩn Fried gồm 5 tiêu chí. Tổng số 389 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 79,1 ± 8,9. Tỉ lệ bệnh nhân có hội chứng dễ bị tổn thương chiếm 68,4%. Trong 5 tiêu chí của hội chứng dễ bị tổn thương, tỉ lệ người có tốc độ đi bộ chậm cao nhất chiếm 85,5%. Nhóm tuổi ≥80 tuổi có tỉ lệ bị hội chứng dễ bị tổn thương cao nhất với 82,2% (p < 0,05). Tỉ lệ bệnh nhân tại khoa Cấp cứu mắc hội chứng dễ bị tổn thương khá cao đặc biệt trên nhóm bệnh nhân trên 80 tuổi. Do vậy cần sàng lọc thường quy trên người cao tuổi điều trị tại khoa cấp cứu.
#hội chứng dễ bị tổn thương #người cao tuổi #khoa cấp cứu #Việt Nam
ĐẶC ĐIỂM HỘI CHỨNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Hội chứng dễ bị tổn thương (HCDBTT)  là một hội chứng lão khoa, xảy ra do sự tích tụ của quá trình suy giảm chức năng nhiều hệ thống cơ quan trong cơ thể, biểu hiện là trạng thái dễ bị tổn thương với các yếu tố về thể chất, xã hội và môi trường. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên 210 người bệnh loãng xương trong thời gian từ tháng 8 năm 2021 đến tháng 8 năm 2022 tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 22,86% người bệnh loãng xương có hội chứng dễ bị tổn thương, trong đó đa số là HCDBTT mức độ nhẹ 18,1% và vừa 4,76%, không có HCDBTT mức độ nặng, rất nặng hay ở giai đoạn cuối. Tỷ lệ mắc HCDBTT ở người độc thân/góa/ly dị cao hơn so với những người đã kết hôn lần lượt là 48,48% và 18,08% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95%. Tỷ lệ bệnh nhân loãng xương bị HCDBTT chiếm tỷ lệ không nhỏ, do đó việc đánh giá hội chứng này trên những bệnh nhân loãng xương nên trở thành một quy trình thường quy để có thể phát hiện và đưa ra những biện pháp can thiệp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh cao tuổi.
#hội chứng dễ bị tổn thương #bệnh loãng xương #người cao tuổi
26. Khảo sát tình trạng hội chứng dễ bị tổn thương và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại Khoa Lão khoa, Bệnh viện E
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 176 Số 3 - Trang 222-231 - 2024
Mô tả thực trạng hội chứng dễ bị tổn thương ở người cao tuổi, và xác định một số yếu tố liên quan. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 287 bệnh nhân cao tuổi đến khám và điều trị tại Khoa Lão khoa, Bệnh viện E. Hội chứng dễ bị tổn thương được chẩn đoán theo tiêu chuẩn Fried sửa đổi. Tuổi trung bình là 75,18, với nữ giới chiếm ưu thế (73,5%). Bệnh nhân cao tuổi nhất là 96 tuổi. Chỉ số đa bệnh lý Charlson trung bình là 2,18 (SD: 1,32) điểm. 110 bệnh nhân được chẩn đoán có hội chứng dễ bị tổn thương theo Fried (38,33%). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo các đặc điểm về độ tuổi, nhóm tuổi và phân loại BMI giữa nhóm có hội chứng dễ bị tổn thương và nhóm không có hội chứng dễ bị tổn thương. Phân loại BMI và tình trạng sống một mình liên quan có ý nghĩa thống kê đến hội chứng dễ bị tổn thương. Tỷ lệ cao hội chứng dễ bị tổn thương ở người cao tuổi trong nghiên cứu. Có mối liên quan độc lập có ý nghĩa thống kê giữa thể trạng theo BMI và tình trạng sống một mình với hội chứng dễ bị tổn thương.
#Hội chứng dễ bị tổn thương #người cao tuổi #yếu tố liên quan
7. Hội chứng dễ bị tổn thương theo thang điểm SEGA ở người cao tuổi mắc đái tháo đường typ 2 tại bệnh viện 19-8
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 175 Số 2 - Trang 53-64 - 2024
Nghiên cứu nhằm đánh giá hội chứng dễ bị tổn thương theo thang điểm đánh giá lão khoa cấp cứu rút gọn (Short Emergency Geriatric Assessment - SEGA) ở người cao tuổi mắc đái tháo đường typ 2 tại bệnh viện 19-8. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 512 người bệnh ≥ 60 tuổi được chẩn đoán ĐTĐ điều trị tại bệnh viện 19-8. Người bệnh được phỏng vấn theo bộ câu hỏi thống nhất đánh giá tình trạng hội chứng dễ bị tổn thương bằng thang điểm SEGA, các thông tin chung, các đặc điểm bệnh ĐTĐ, biến chứng của ĐTĐ và một số hội chứng lão khoa. Tỉ lệ người bệnh kiểm soát tốt HbA1c ≤ 7,5% chiếm 74,4%. Tỉ lệ người bệnh kiểm soát kém HbA1c > 8,5% chiếm 14,6%. Tỉ lệ hội chứng dễ bị tổn thương theo thang điểm SEGA là 27,5%, hội chứng dễ bị tổn thương nặng là 11,3%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng dinh dưỡng, chức năng hoạt động hàng ngày, chức năng hoạt động hàng ngày có dụng cụ, mức độ hoạt động thể lực, trạng thái tâm thần tối thiểu, trầm cảm, nguy cơ ngã, Sarcopenia, chức năng thể chất với HCDBTT (p < 0,01). Bệnh nhân đái tháo đường có hội chứng dễ bị tổn thương chiếm tỉ lệ không nhỏ khi được sàng lọc bằng thang điểm SEGA - bộ công cụ dễ sử dụng, khách quan, có tính ứng dụng cao trong thực hành lâm sàng có thể áp dụng thường quy để có thể phát hiện sớm hội chứng dễ bị tổn thương ở người bệnh ĐTĐ cao tuổi.
#Người cao tuổi #Hội chứng dễ bị tổn thương #SEGA #đái tháo đường
27. Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hội chứng dễ bị tổn thương ở bệnh nhân cao tuổi
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 181 Số 8 - Trang 244-255 - 2024
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định tỷ lệ mắc hội chứng dễ bị tổn thương và một số yếu tố liên quan đến hội chứng dễ bị tổn thương bằng cách đánh giá theo tiêu chuẩn Fried sửa đổi ở những bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên. Nghiên cứu thu nhận 1796 bệnh nhân là người cao tuổi tại Bệnh viện E Trung ương và Bệnh viện Lão khoa Trung ương trong năm 2022. Theo tiêu chuẩn của Fried sửa đổi, tỷ lệ người cao tuổi được chẩn đoán tiền hội chứng dễ bị tổn thương và gặp phải hội chứng dễ bị tổn thương tương ứng là 38,59% và 41,70%. Giữa nhóm người cao tuổi có hội chứng dễ bị tổn thương và nhóm không có hội chứng dễ bị tổn thương, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo độ tuổi, nhóm tuổi, phân loại BMI, tình trạng hôn nhân, khu vực sinh sống, trình độ học vấn, bảo hiểm y tế và chỉ số đa bệnh lý Charlson. Độ tuổi, phân loại BMI, trình độ học vấn và bảo hiểm y tế là các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến hội chứng dễ bị tổn thương ở bệnh nhân người cao tuổi. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ được chẩn đoán hội chứng dễ bị tổn thương theo tiêu chí Fried là phù hợp với các nghiên cứu ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình khác. Nghiên cứu chỉ ra có mối liên quan độc lập có ý nghĩa thống kê giữa độ tuổi, phân loại BMI, trình độ học vấn và bảo hiểm y tế với hội chứng dễ bị tổn thương ở bệnh nhân người cao tuổi.
#Hội chứng dễ bị tổn thương; người cao tuổi; tiêu chuẩn Fried sửa đổi
29. ĐẶC ĐIỂM HỘI CHỨNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG Ở BỆNH NHÂN CAO TUỔI NHỒI MÁU NÃO CẤP SAU CAN THIỆP NỘI MẠCH
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CĐ10 - Bệnh viện Thống Nhất - Trang - 2024
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mục đích mô tả hội chứng dễ bị tổn thương ở bệnh nhân cao tuổi bị nhồi máu não cấp (AIS) được điều trị bằng can thiệp tái thông nội mạch. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu phân tích các bệnh nhân AIS cao tuổi được điều trị bằng can thiệp nội mạch từ tháng 4 năm 2023 đến tháng 12 năm 2023, tại Bệnh viện Quân y 108. Chúng tôi sử dụng ADL, iADL và CFS (thang điểm yếu lâm sàng) để xác định tình trạng yếu sức trước đột quỵ và mRS sau đột quỵ 1 tháng và 3 tháng là kết quả chính. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân < 75 tuổi là 79,1%; và 68,3% bệnh nhân là nam giới; ADL là 5,4 điểm, IADL là 7,0 điểm, điểm suy yếu là 3,7 điểm. Nhóm tuổi < 75 tuổi có CFS trung bình là 3,5 điểm và nhóm tuổi > 75 tuổi có CFS trung bình là 4,0 điểm (p=0,06). Bệnh nhân có thói quen sử dụng rượu có điểm suy yếu cao hơn bệnh nhân đã bỏ rượu hoặc không bao giờ sử dụng rượu (p=0,03). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm CFS giữa các nhóm tuổi của bệnh nhân (p = 0,003). Khi tuổi tăng lên, điểm CFS tăng lên. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm CFS với IADL của bệnh nhân (p = 0,01). Khi IADL giảm, điểm CFS tăng. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm CFS với ADL của bệnh nhân (p < 0,001). Khi ADL giảm, điểm CFS tăng. Kết luận: Bệnh nhân càng lớn tuổi thì nguy cơ bị hội chứng dễ bị tổn thương càng cao. Có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, thói quen hút thuốc và sử dụng rượu với điểm số yếu đuối. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính để thống kê và kết quả cho thấy tuổi càng tăng thì tỷ lệ bị hội chứng dễ bị tổn thương càng tăng; khi IADL và ADL giảm, CFS tăng.
#CFS #IADL #ADL #Hội chứng dễ bị tổn thương #nhồi máu não cấp ở người cao tuổi
9. Suy giảm chức năng thể chất và mối liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương ở bệnh nhân loãng xương cao tuổi
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá tình trạng suy giảm chức năng thể chất và mối liên quan với hội chứng dễ bị tổn thương ở bệnh nhân loãng xương cao tuổi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 392 người bệnh loãng xương trong thời gian từ tháng 8 năm 2021 đến tháng 8 năm 2022 tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Tình trạng suy giảm chức năng thể chất được đánh giá bằng các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (ADL) và các hoạt động chức năng hàng ngày có sử dụng dụng cụ (IADL). Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình là 73,15 ± 6,57. Tỷ lệ hội chứng dễ bị tổn thương chiếm 23,7%. Số bệnh nhân có suy giảm chức năng hoạt động hàng ngày theo ADL chiếm 23,2%, trong đó suy giảm về hoạt động đi lại hay gặp nhất (26,3%). Theo IADL, số bệnh nhân có suy giảm chức năng là 30,6%, trong đó suy giảm về hoạt động tự nấu ăn chiếm tỷ lệ cao nhất (32,7%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa suy giảm chức năng thể chất và hội chứng dễ bị tổn thương với p < 0,001, trong đó đối tượng nghiên cứu có suy giảm chức năng thể chất theo ADL và IADL có hội chứng dễ bị tổn thương cao hơn so với nhóm bệnh nhân có chức năng thể chất bình thường. Kết quả của chúng tôi đã cung cấp thêm bằng chứng cho thấy cần sàng lọc tình trạng suy giảm chức năng thể chất và hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân loãng xương cao tuổi.
#Hội chứng dễ bị tổn thương #bệnh loãng xương #ADL #IADL #người cao tuổi
Tổng số: 11   
  • 1
  • 2